Tiểu sử
Quê gốc Nguyễn Trãi là làng Chi
Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương nhưng sinh ra ở Thăng Long trong dinh
ông ngoại là quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, về sau dời về sống ở làng Ngọc Ổi,
xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Ông là con trai của Nguyễn Phi
Khanh (trước đây có tên là Nguyễn Ứng Long), vốn là học trò nghèo thi đỗ thái
học sinh và bà Trần Thị Thái - con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, dòng dõi quý
tộc nhà Trần.
|
|
Vong thần nhà Hồ
Nguyễn Trãi sống trong thời đại đầy biến động dữ dội.
Nhà Trần suy vong, Hồ Quý Ly lên thay, lập ra nhà Hồ, đổi tên nước là Đại Ngu.
Năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh. Cả Nguyễn
Phi Khanh và làm quan cho nhà Hồ. Nhưng chẳng bao lâu sau (1407) quân Minh sang
đánh nước Đại Ngu. Nhà Hồ thua trận, cha con Hồ Quý Ly cùng các triều thần bị
bắt sang Trung Quốc, trong đó có Nguyễn Phi Khanh.
Tương truyền lúc ấy, Nguyễn Trãi muốn giữ tròn đạo
hiếu, đã cùng em trai là Nguyễn Phi Hùng theo cha sang Trung Quốc. Nhưng đến ải
Nam Quan, nghe lời cha dặn phải tìm cách rửa nhục cho đất nước, ông đã trở về
và bị quân Minh bắt giữ ở Đông Quan.
Tướng văn trong khởi nghĩa Lam Sơn
Nguyễn Trãi bỏ trốn tìm theo Lê Lợi. Các tài liệu nói
khác nhau về thời điểm Nguyễn Trãi tham gia khởi nghĩa. Có tài liệu nói ông
tham gia từ đầu, có tài liệu nói đến năm 1420 hoặc 1423 ông mới theo Lê Lợi.
Theo gia phả họ Đinh kể về thân thế Đinh Liệt, một
tướng Lam Sơn khác, có đề cập đến việc Nguyễn Trãi gia nhập quân Lam Sơn. Theo
đó, mùa xuân năm Quý Mão (1423) Nguyễn Trãi lấy tên là Trần Văn, Trần Nguyên
Hãn lấy tên là Trần Võ vào Lỗi Giang gia nhập nghĩa quân Lam Sơn trong khi Bình
Định Vương lại cho Phạm Văn Xảo đi tìm Nguyễn Trãi ở Đông Quan. Vì không biết
rõ lai lịch hai vị này, Nguyễn Như Lãm (cận thần của Lê Lợi) đã giao cho Trần
Văn làm Ký lục quân lương, Trần Võ thì đi chở thuyền. Mãi đến khi Nguyễn Trãi
dâng Bình Ngô sách, Lê Lợi mới biết rõ hai người này và giữ lại bên
mình để lo giúp việc. Tài liệu này có cơ sở vì các sử sách khi nói về giai đoạn
đầu của khởi nghĩa Lam Sơn cũng không nhắc tới Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê
Lợi lãnh đạo để lật đổ ách đô hộ của nhà Minh, trở thành quân sư đắc lực của Lê
Lợi (vua Lê Thái Tổ sau này) trong việc bày tính mưu kế cũng như soạn thảo các
văn bản trả lời quân Minh cho Lê Lợi.
Đặc biệt trong giai đoạn từ 1425, khi quân Lam Sơn
trên đà thắng lợi, vây hãm nhiều thành trì của quân Minh, Nguyễn Trãi thường
viết thư gửi cho tướng giặc trong thành để dụ hàng hoặc làm nản ý chí chiến đấu
của tướng giặc.
Năm 1427, ông được liệt vào hàng Đại phu, coi sóc các
việc chính trị và quản công việc ở Viện Khu mật. Quân Lam Sơn giải phóng vùng
Bắc Bộ, đánh tan viện binh của Vương Thông. Thông rút vào cố thủ trong thành
Đông Quan. Vua Minh sai Liễu Thăng và Mộc Thạnh chia làm 2 đường, cầm hơn 10
vạn quân sang cứu viện. Lúc đó quân Lam Sơn đứng trước hai chọn lựa vì sắp phải
đối phó với địch bên ngoài vào và địch đánh ở trong thành ra. Lực lượng của
Vương Thông hợp với quân Minh sang từ trước đã có khoảng 10 vạn người, quân Lam
Sơn vây hãm có chút lơi lỏng đã bị địch ra đánh úp, phải trả giá cao bằng việc
mất 3 tướng giỏi: Lê Triện, Đinh Lễ bị tử trận, Đỗ Bí và Nguyễn Xí bị bắt. Chỉ
có Nguyễn Xí sau đó nhờ mưu trí và nhanh nhẹn đã trốn thoát về.
Số đông các tướng nóng lòng muốn hạ gấp thành Đông
Quan để hết lực lượng làm nội ứng cho Liễu Thăng và Mộc Thạnh. Riêng Nguyễn
Trãi không đồng tình với quan điểm đó. Ông kiến nghị với Lê Lợi ý kiến của mình
và được chấp thuận. Và Lê Lợi đã theo kế của ông nói với các tướng rằng:
"Đánh Đông Quan là hạ sách. Nếu ta đánh thành
kiên cố đó, phải mất mấy tháng hoặc hàng năm, chưa chắc đã hạ nổi, binh sĩ ta
phải mệt mỏi chán nản. Đang khi đó, viện binh của địch kéo dến, thế là ta bị
địch đánh cả đằng trước, đằng sau, đó là rất nguy. Chi bằng ta hãy nuôi sức
khoẻ, chứa dũng khí chờ đánh viện binh. Khi viện binh đã bị phá, tất nhiên quân
trong thành phải hàng, thế là ta chỉ khó nhọc một phen mà thu lợi gấp
hai."
Diễn biến chiến sự sau đó quả như Nguyễn Trãi tiên
đoán. Lê Lợi điều các tướng giỏi lên đánh chặn hai đạo viện binh, giết được
Liễu Thăng, Mộc Thạnh bỏ chạy về nước. Vương Thông trong thành tuyệt vọng không
còn cứu binh phải mở cửa thành ra hàng, cùng Lê Lợi thực hiện "hội thề
Đông Quan", xin rút quân về nước và cam kết không sang xâm phạm nữa.
Theo lệnh của Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo bài Bình Ngô đại cáo để bá cáo cho thiên hạ biết về việc đánh giặc Minh, được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam (sau bài thơ Nam quốc sơn hà).
Công thần bị tội
Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, phong ông tước Quan Phục hầu và cho theo họ Lê của vua.
Sau thắng lợi 1 năm, đầu năm 1429, Lê Lợi nghi ngờ
Trần Nguyên Hãn, một tướng giỏi vốn là dòng dõi nhà Trần định mưu phản, nên sai
người đi bắt hỏi tội. Trần Nguyên Hãn nhảy xuống sông tự vẫn. Vì Nguyên Hãn là
anh em họ của Nguyễn Trãi nên ông cũng cũng bị bắt giam vì nghi ngờ có liên
quan tới tội mưu phản. Sau đó vì không có chứng cứ buộc tội, vua Lê lại thả ông
ra. Tuy nhiên cũng từ đó ông không còn được trọng dụng như trước nữa.
Bị oan khuất, sau khi ra khỏi ngục, ông làm bài Oan
thán bày tỏ nỗi bi phẫn, trong đó có câu:
"Hư danh thực hoạ thù kham tiếu,
Chúng báng cô trung tuyệt khả liên."
Dịch:
Danh hư thực họa nên cười quá,
Bao kẻ dèm pha xót người trung
Vụ án Lệ Chi Viên
"Hư danh thực hoạ thù kham tiếu,
Chúng báng cô trung tuyệt khả liên."
Dịch:
Danh hư thực họa nên cười quá,
Bao kẻ dèm pha xót người trung
Vụ án Lệ Chi Viên
Năm 1433, Thái Tổ mất, thái tử Nguyên Long lên nối
ngôi, tức là Lê Thái Tông. Những năm đầu, Tư đồ Lê Sát làm phụ chính điều hành
triều chính. Nguyễn Trãi tham gia giúp vua mới. Nhân bàn về soạn lễ nhạc,
Nguyễn Trãi khuyên nhà vua:
"Nguyện xin bệ hạ yêu thương và nuôi dưỡng dân
chúng để nơi thôn cùng xóm vắng không có tiếng oán hận sầu than".
Năm 1435, ông soạn sách Dư địa chí để vua xem nhằm
nâng cao sự hiểu biết, niềm tự hào và ý thức trách nhiệm của nhà vua đối với
non sông đất nước.
Bị các quyền thần đứng đầu là Lê Sát chèn ép, Nguyễn
Trãi cáo quan về ở ẩn tại Côn Sơn, Chí Linh, thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay.
Tuy nhiên, trái với dự tính của Lê Sát, Thái Tông còn
ít tuổi nhưng không dễ trở thành vua bù nhìn để Sát khống chế mãi. Năm 1437,
nhà vua anh minh nhanh chóng chấn chỉnh triều đình, cách chức và giết các quyền
thần Lê Sát, Lê Ngân; các lương thần được trọng dụng trở lại, trong đó có
Nguyễn Trãi. Lúc đó ông đã gần 60 tuổi, lại đảm nhiệm chức vụ cũ, kiêm thêm
chức Hàn lâm viện Thừa chỉ và trông coi việc quân dân hai đạo Đông, Bắc (cả
nước chia làm 5 đạo). Thời gian phò vua Thái Tông, Nguyễn Trãi tiếp tục phát
huy được tài năng của ông. Tuy nhiên khi triều chính khá yên ổn thì cung đình
lại xảy ra tranh chấp.
Vua Thái Tông ham sắc, có nhiều vợ, chỉ trong 2 năm
sinh liền 4 hoàng tử. Các bà vợ tranh chấp ngôi thái tử cho con mình nên trong
triều xảy ra xung đột. Vua truất hoàng hậu Dương Thị Bí và ngôi thứ tử của con
bà là Lê Nghi Dân lên 2 tuổi, lập Nguyễn Thị Anh làm hoàng hậu và cho con của
bà này là Lê Bang Cơ chưa đầy 1 tuổi làm thái tử. Cùng lúc đó một bà vợ khác
của vua là Ngô Thị Ngọc Dao lại sắp sinh, hoàng hậu Nguyễn Thị Anh sợ đến lượt
mẹ con mình bị phế nên tìm cách hại bà Ngọc Dao. Nguyễn Trãi cùng một người vợ
thứ là Nguyễn Thị Lộ tìm cách cứu bà Ngọc Dao đem nuôi giấu, sau bà sinh được
hoàng tử Tư Thành (tức vua Lê Thánh Tông sau này).
Tháng 7 năm 1442, vua Lê Thái Tông về qua nhà Nguyễn
Trãi tại Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương ngày nay), vợ Nguyễn Trãi là bà Nguyễn
Thị Lộ theo hầu vua. Trên đường về kinh Vua đột ngột qua đời tai vườn hoa Lệ
Chi Viên nay thuộc Gia Bình, Bắc Ninh. Nguyễn Trãi bị triều đình do hoàng hậu
Nguyễn Thị Anh cầm đầu khép tội giết vua và bị giết cả 3 họ (tru di tam tộc)
ngày 16 tháng 8 năm 1442. "Tru di tam tộc" là giết người trong họ của
người bị tội, họ bên vợ và họ bên mẹ của người đó. Theo gia phả họ Nguyễn,
ngoài những người họ Nguyễn cùng họ với ông, còn có những người họ Trần cùng họ
với bà Trần Thị Thái mẹ ông, người trong họ bà Nhữ thị vợ thứ của Nguyễn Phi
Khanh, những người trong họ của các bà vợ Nguyễn Trãi (kể cả vợ lẽ), tất cả đều
bị xử tử.
Năm 1464, Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho
Nguyễn Trãi. Con cháu ông được tìm lại và bổ dụng. Người con út sinh ra sau khi
ông qua đời là Nguyễn Anh Vũ được Lê Thánh Tông phong cho chức Đồng Tri Phủ
huyện Tĩnh Gia (Thanh Hóa), cấp cho 100 mẫu ruộng gọi là "Miễn hoàn
điền" (ruộng không phải trả lại) con cháu đời đời được hưởng. Nguyễn Anh
Vũ xây dựng mộ chí của Nguyễn Trãi tại xứ đồng Tai Hà, làng Dự Quần, lấy sọ
dừa, cành dâu táng làm cốt; lấy ngày mất của Nguyễn Trãi - 16 tháng 8 là ngày
giỗ họ.
Minh oan cho Nguyễn Trãi, vua Thánh Tông ca ngợi ông: "Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo" (tấm lòng Ức Trai sáng như sao Khuê). Năm 1467, vua Thánh Tông ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi.
Dù vậy, các nhà nghiên cứu vẫn băn khoăn chưa rõ vì sao một vị vua được coi là anh minh và quyết đoán như Lê Thánh Tông, đã minh oan cho Nguyễn Trãi, một đại công thần sáng lập vương triều Lê, người đã cùng với vợ là Nguyễn Thị Lộ ra sức che chở cho mẹ con nhà vua lúc gian nan, mà chỉ truy tặng tước bá, thấp hơn cả tước hầu vốn được Lê Thái Tổ ban phong khi ông còn sống. Các công thần khác của nhà Hậu Lê thường được các vua đời sau truy tặng tước cao hơn, như công và sau nữa lên vương.
Năm 1980 nhân kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, UNESCO đã công nhận ông là danh nhân văn hóa thế giới.
(Theo Wikipedia tiếng Việt)
0 comments :
Post a Comment