I.Bình minh
của lịch sử Hà Nội:
1.Vùng đất Hà Nội thời tiền sử:
Những di chỉ khảo cổ tại Cổ Loa cho
thấy con người đã xuất hiện ở khu vực Hà Nội từ cách đây 2 vạn năm, giai đoạn
của nền văn hóa Sơn Vi. Nhưng đến thời kỳ băng tan, biển tiến sâu vào đất liền,
các cư dân của thời đại đồ đá mới bị đẩy lùi lên vùng núi. Phải tới khoảng 4
hoặc 5 ngàn năm trước Công Nguyên, con người mới quay lại sinh sống ở nơi đây.
Các hiện vật khảo cổ giai đoạn tiếp theo, từ đầu thời đại đồ đồng đến đầu thời
đại đồ sắt, minh chứng cho sự hiện diện của Hà Nội ở cả bốn thời đại văn hóa:
Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn. Những cư dân Hà Nội thời kỳ đó sinh
sống nhờ trồng trọt, chăn nuôi và chài lưới. Giai đoạn tiền sử này tương ứng
với thời kỳ của các Vua Hùng trong truyền thuyết.
2.Hà Nội thời Văn Lang – Âu Lạc
Thế kỷ 3 trước Công Nguyên, trong
cuộc chiến với quân Tần từ phương Bắc, Thục Phán quyết định đóng đô ở Cổ Loa,
nay là huyện Đông Anh, cách trung tâm Hà Nội khoảng 15 km. Sự xuất hiện
của thành Cổ Loa ghi dấu Hà Nội lần đầu tiên trở thành một đô thị trung tâm về
chính trị và xã hội.
II.Hà Nội thời Bắc thuộc: Truyền
thống chống giặc ngoại xâm
Thất bại của Thục Phán đầu thế kỷ 2
trước Công Nguyên đã kết thúc giai đoạn độc lập của Âu Lạc, bắt đầu giai đoạn một
ngàn năm do các triều đại phong kiến Trung Hoa thống trị. Thời kỳ nhà Hán, Âu
Lạc cũ được chia thành ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, Hà Nội khi đó
thuộc quận Giao Chỉ. Vắng bóng trong sử sách suốt năm thế kỷ đầu, đến khoảng
năm 454–456 thời Lưu Tống, Hà Nội mới được ghi lại là trung tâm của huyện Tống
Bình. Năm 544, Lý Bí nổi dậy chống lại nhà Lương, tự xưng hoàng đế, đặt quốc
hiệu là Vạn Xuân. Người cháu của Lý Bí là Lý Phật Tử tới đóng đô ở Cổ Loa,
nhưng nền độc lập này chỉ kéo dài tới năm 602. Thời kỳ Nhà Đường, An Nam được
chia thành 12 châu với 50 huyện, Tống Bình là trung tâm của An Nam đô hộ phủ.
Năm 866, viên tướng nhà Đường Cao Biền xây dựng một thành trì mới, Tống Bình
được đổi tên thành Đại La – thủ phủ của Tĩnh Hải quân. Theo truyền thuyết, khi
đắp thành, Cao Biền thấy một vị thần hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ. Vì vậy,
sử sách còn gọi Thăng Long là đất Long Đỗ.Thế kỷ 10, sau chiến thắng của Ngô
Quyền trước quân Nam Hán, Cổ Loa một lần nữa trở thành kinh đô của nước Việt.
III.Thăng
Long thời Lý :
1.Định
đô Thăng Long – Mốc son lịch sử
Năm
1009, Lý Công Uẩn lên ngôi vua đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử dân
tộc. Với nhãn quan chính trị xuất sắc của mình, nhà vua đã nhận ra vị thế đắc
địa của thành Đại La. Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi rằng: Vua thấy thành Hoa
Lư ẩm thấp chật hẹp, không đủ làm chỗ ở của đế vương, muốn dời đi nơi khác, tự
tay viết chiếu dời đô. Vì thế, vào mùa tháng bảy năm Canh Tuất (1010), vua từ
thành Hoa Lư, dời đô ra kinh phủ ở thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có
rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó mới đổi tên thành là thành Thăng Long.
2.Vài nét về quy hoạch Thăng Long
Như
vậy, ngay sau khi dời đô ra Thăng Long, nhà Lý đã xây dựng Thăng Long thành
kinh đô to lớn và lâu bền của Đại Việt. Quy mô rộng lớn đòi hỏi mặt bằng rộng
để quy hoạch kiến thiết, vì thế, không ít ấp dân cư đã phải di dời ra ven đô để
nhường đất cho triều đình xây dựng kinh thành. Làng Cơ Xá là một trong những
làng như vậy. Trong Lệnh dụ ngày 22/3 năm Thịnh Đức thứ 2 triều Lê (1654) có
đoạn viết: "ấp ta xưa nằm tại khu xây dựng nội điện thành Thăng Long nên
vua Lý Thái Tổ đã cho dời ấp để lấy chỗ xây dựng kinh đô. Vì dân ở bãi giữa
sông không có ruộng cấy cày, chỉ sống dựa vào nghề trồng dâu nuôi tằm nên vua
chuẩn cho được miễn trừ mọi khoản thuế khóa, thuế đò cùng các sưu sai đóng góp
vào việc đắp đê, làm đường, việc quân… để bù vào phần đất nhường lại để xây
dựng cung điện nhà vua".
Ngay
khi định đô ở Thăng Long, vị vua đầu triều Lý đã xuống chiếu phát tiền kho 2
vạn quan, thuê thợ làm chùa ở phủ Thiên Đức (châu Cổ Pháp được đổi tên là phủ
Thiên Đức), tất cả 8 sở, đều dựng bia ghi công. Lại cho xây dựng các cung điện
trong kinh thành Thăng Long, phía trước dựng điện Càn Nguyên làm chỗ coi chầu,
bên Tả làm điện Tập Hiền, bên Hữu dựng điện Giảng Võ… Dựng kho tàng, đắp thành,
đào hào. Bốn mặt thành mở bốn cửa. Ngoài thành về phía Nam dựng chùa Thắng
Nghiêm.
Đời
sống kinh tế tại Thăng Long thời gian này đã có nhiều thay đổi. Từ vị trí là
một miền dân khang vật thịnh, nên khi trở thành Kinh Sư dân số Thăng Long ngày
càng đông, hoạt động kinh tế của kinh thành ngày càng sầm uất, phồn thịnh hơn
trước. Chỉ trong khoảng hơn một trăm năm sau khi trở thành kinh đô, tại Thăng
Long, nhà Lý trong giai đoạn thịnh đạt đã đẩy mạnh công cuộc xây dựng và bảo vệ
đất nước trên quy mô lớn, mở ra kỷ nguyên văn minh Đại Việt trong lịch sử dân
tộc.
3.Dấu
ấn Thăng Long thời Lý :
Một
điều đặc biệt trong các đời vua nhà Lý là sự sùng bái Phật giáo đến cao độ. Đời
vua nào cũng cho xây dựng chùa đền để tế lễ. Sử gia Lê Văn Hưu từng nhận xét
rằng: Lý Thái Tổ lên ngôi mới được hai năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã tắc
chưa lập mà nước đã dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các
lộ và độ cho làm tăng hơn nghìn người ở kinh sư.
Và
như một tiền lệ, các đời vua kế tiếp trị vì cũng đều cho xây dựng chùa chiền
tráng lệ.Sách Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi: Vào đời vua Lý Nhân Tông, năm
Quảng Hựu thứ 4 (1088), mùa Xuân, tháng Giêng, phong nhà sư Khô Đầu làm Quốc
Sư, cùng với quan Tể tướng đứng trên điện, xét đoán công việc và đơn từ kiện
tụng của thiên hạ… Định các chùa trong nước làm ba hạng Đại, Trung và Tiểu danh
lam, cho quan văn chức cao kiêm làm Đề cử. Do bấy giờ nhà chùa có điền nô và
kho chứa đồ vật cho nên đặt chức ấy (chức Đề cử là tên chức quan thời Lý, quản
lý ruộng đất và tài sản của nhà chùa).
Lại
nữa, vào mùa Thu, tháng 9/1105, vua cho làm hai ngọn tháp chỏm trắng ở chùa
Diên Hựu, ba ngọn tháp chỏm đá ở chùa Lãm Sơn. Bấy giờ, vua cho sửa chữa chùa
Diên Hựu đẹp hơn cũ, đào hồ trồng sen, gọi là hồ Linh Chiểu… Trước sân chùa xây
bảo tháp. Hàng tháng cứ ngày rằm, mồng 1 và mùa hạ ngày mồng 8 tháng 4, vua lại
xa giá ngự đến đặt lễ cầu phúc, bày nghi thức tắm phật, hàng năm lấy làm thường
lệ.
Bên
cạnh việc xây dựng một quốc gia Đại Việt mạnh mẽ về chính trị, quân sự, kinh
tế, các triều đại nhà Lý đã dụng công xây dựng chùa chiền và các nơi thờ cúng
khắp nơi với quy mô cực kỳ hoành tráng. Do vậy, thật không ngoa khi các nhà
nghiên cứu ngày nay đã đánh giá thời kỳ nhà Lý, Phật giáo là quốc giáo.
Sử
gia Lê Văn Hưu nhận định rằng: các triều đại nhà Lý xây tháp cao ngất trời,
dựng cột chùa đá, điện thờ phật lộng lẫy hơn cung vua. Dân chúng quá nửa là sư
sãi, trong nước chỗ nào cũng thấy chùa chiền.
Đó
là chuyện của lịch sử, song cũng phải nhận thấy rằng, chính vì thời Lý, Phật
giáo là quốc giáo nên đã xuất hiện những điều kỳ vĩ. Người nước ngoài từng nhận
định rằng, tứ đại khí của An Nam: chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên, tượng Quỳnh
Lâm, vạc Phổ Minh đã được thiết kế từ thời kỳ này (thời nhà Lý) và đã tạo nên dấu
ấn văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt.
Diện
mạo Thăng Long thời Lý còn phải kể đến đền Đồng Cổ, ở phố Thụy Khuê, thờ thần
Trống Đồng. Đền Đồng Cổ vốn ở Thanh Hóa, nhà Lý đã cho rước thần về Thăng Long
để thờ làm thần bản mệnh của triều đình, hàng năm tổ chức lễ tuyên thệ của các
quan: “Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung thì thần minh tru diệt”. Trong đền
lễ trọng thể, tất cả các quan văn võ phải thề hiếu trung trước thần Trống Đồng
với sự chứng kiến của nhà vua. Ngoài đền thì trai thanh gái lịch mở hội tưng
bừng.
Vào
thời Lý, Văn Miếu đã được xây dựng vào năm 1070, là một công trình biểu hiện
của đạo Nho, nhưng cũng chỉ nằm khiêm tốn giữa mấy chục ngôi chùa và quán, là
những công trình biểu hiện của Thiền tông và đạo Lão. Tuy vậy, đây cũng là mốc
son đánh dấu sự phát triển khởi đầu của Nho giáo ở Việt Nam.
Học
hành thi cử thời nhà Lý chưa có gì làm thịnh, chế độ khoa cử chưa thành trường
quy. Do Phật giáo là quốc giáo nên trong khoa cử có thi Tam giáo, tức Nho,
Phật, Lão. Điều này khác hẳn với triều Lê sau này, khi Nho giáo cực thịnh thì
triều đình ra lệ thi về kinh sử tử tập của Nho gia.
Trong
216 năm tồn tại dưới thời nhà Lý, Thăng Long chưa một lần là chiến địa chống
ngoại xâm, nên những tinh hoa nghệ thuật của người Thăng Long giai đoạn này đã
được phát huyvà gìn giữ. Bên cạnh sự phát triển của kiến trúc nghệ thuật điêu
khắc thì trong sinh hoạt văn hóa ở Thăng Long đã để lại nhiều dấu ấn đáng kể.
Vui chơi có mây đẹp hồ Dâm Đàm (Hồ Tây), có trăng thanh Tô Lịch. Những khu danh
lam chùa quán là nơi diễn ra các lễ hội đình, hội chùa, hội quán với những trò
chơi dân gian như tung còn, đánh phết đầu xuân. Nét văn hóa sôi nổi nhất vẫn là
múa rối nước và lễ hội đua thuyền. Sử còn ghi, vào những ngày đầu xuân, ở bến
Đông Bộ Đầu (nay ở gần dốc phố Hàng Than) chật người xem đua thuyền, khắp nơi
huyên náo.
Một
nét văn hóa độc đáo được định ra từ thời Lý là, vào năm 1048, vua Lý Thái Tông
xuốngchiếu “định phép đánh Xuân Ngưu”. Nghi thức này xuất phát từ văn hóa
truyền thống của người Việt cổ gắn với nền văn hóa lúa nước hay còn gọi là văn
minh sông Hồng. Và nghi thức này được duy trì sang các triều đại sau này. Trong
An Nam chí lược của Lê Tắc đời Trần có, viết: “Tiết lập xuân, vua sai vị trưởng
họ dùng roi đánh con trâu bằng đất. Xong thì các quan liêu đều cài hoa lên mũ,
vào cung hội yến”. Sang đến đời Lê, nghi thức Tiến Xuân Ngưu vẫn được duy
trì và phát triển.
Triều
đại nhà Lý, trên đất Thăng Long đã để lại nhiều dấu ấn văn hóa độc đáo cho dân
tộc. Đâu đây trong hồn thiêng sông núi vẫn vang dậy khí phách hào hùng của một
thuở xây dựng kinh đô văn hiến để lại cho con cháu muôn đời.
IV.Thăng
Long thời Trần:
Nhà Trần nối bước nhà Lý cai trị Đại
Việt, kinh thành Thăng Long tiếp tục được xây dựng. Hoàng thành được củng cố và
xuất hiện thêm những cung điện. Năm 1230, Thăng Long được chia thành 61 phường,
kinh thành đông đúc hơn dù địa giới không thay đổi. Giai đoạn này cũng ghi nhận
sự xuất hiện của những cư dân ngoại quốc, như người Hoa, người Java và người Ấn
Độ. Nền kinh tế công thương nghiệp cũng sản sinh tầng lớp thị dân và Thăng Long
còn là nơi quy tụ của nhiều học giả, trí thức như Hàn Thuyên, Lê Văn Hưu, Chu
Văn An... Trong cuộc chiến tranh với nhà Nguyên, kinh thành Thăng Long ba lần
bị chiếm giữ nhưng đều kết thúc trong chiến thắng của Đại Việt.
V.Thăng Long thời Hồ - Lê Sơ đến
thời Tây Sơn
1.Thời nhà Hồ đến Lê Sơ :
Cuối thế kỷ 14, thời kỳ nhà Trần suy
vi, một quý tộc ngoại thích là Hồ Quý Ly thâu tóm quyền lực, ép vua Trần dời
kinh đô về Thanh Hóa. Khi Hồ Quý Ly chính thức lên ngôi, lập nên nước Đại Ngu
năm 1400, kinh đô mới mang tên Tây Đô, Thăng Long được đổi
thành Đông Đô. Nhưng vương triều của nhà Hồ chỉ tồn tại trong thời
gian ngắn ngủi. Năm 1406, nhà Minh đưa quân xâm lược Đại Ngu, Thăng Long bị
chiếm đóng và đổi tên thành Đông Quan. Thời kỳ Bắc thuộc thứ tư bắt
đầu từ năm 1407 và kéo dài tới năm 1428.
Sau chiến thắng của khởi nghĩa Lam
Sơn, Lê Lợi thành lập nhà Lê và Đông Đô cũng lấy lại vị thế kinh thành. Năm
1430, thành phố được đổi tên thành Đông Kinh, đến 1466 được gọi là
phủ Trung Đô. Hoàng thành Thăng Long dưới thời nhà Lê tiếp tục được mở rộng.
Bên cạnh, khu vực dân cư được chia thành 2 huyện Vĩnh Xương và Quảng Đức, mỗi
huyện 18 phường. Thời kỳ này, đứng đầu bộ máy hành chính là chức Phủ doãn.
Thành phố tiếp tục một thời kỳ của những phường hội buôn bán, tuy bị hạn chế
bởi tư tưởng ức thương của nhà Lê.
Trong giai đoạn tranh giành quyền
lực giữa nhà Lê, nhà Mạc và chúa Trịnh, Thăng Long vẫn duy trì vị trí kinh đô.
Sự phức tạp của chính trị thời kỳ này cũng đem lại cho thành phố một điểm đặc
biệt: Bên cạnh hoàng thành của vua Lê, phủ Chúa Trịnh được xây dựng và là trung
tâm quyền lực thực sự. Nhờ nền kinh tế hàng hóa và sự phát triển của ngoại
thương, đô thị Thăng Long bước vào thời kỳ phồn vinh, thu hút thêm nhiều cư dân
tới sinh sống. Câu ca Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến nói
lên sự sầm uất giàu có của thành phố, giai đoạn này còn có tên gọi khác là Kẻ
Chợ. Nhà truyền giáo người Pháp Alexandre de Rhodes ước tính dân số Thăng Long
khi đó khoảng 1 triệu người. William Dampier, nhà phiêu lưu người Anh, đưa ra
con số thường được xem hợp lý hơn, khoảng 2 vạn nóc nhà.
2.TL thời Tây Sơn
Mùa hè năm 1786, quân Tây Sơn tiến
ra miền Bắc lật đổ chính quyền chúa Trịnh, chấm dứt hai thế kỷ chia cắt Đàng
Trong - Đàng Ngoài. Sau khi Nguyễn Huệ cùng quân Tây Sơn quay về miền Nam, năm
1788, nhà Thanh đưa quân xâm lược Đại Việt. Tại Phú Xuân, Nguyễn Huệ lên ngôi
ngày 22 tháng 12 năm 1788 rồi đưa quân ra Bắc. Sau chiến thắng ở trận Ngọc Hồi
- Đống Đa, nhà Tây Sơn trị vì Đại Việt với kinh đô mới ở Phú Xuân, Thăng Long
trở thành thủ phủ của Bắc Thành, tức Bắc Bộ ngày nay.
VI.Thăng Long – Hà Nội từ năm 1802 –
1918:
1.Thăng Long – Hà Nội thời Nguyễn :
Huy hiệu Hà Nội giai đoạn Liên bang
Đông Dương và Quốc gia Việt Nam.
Triều đại Tây Sơn sụp đổ sau một
thời gian ngắn ngủi, Gia Long lên ngôi năm 1802 lấy kinh đô ở Phú
Xuân, bắt đầu nhà Nguyễn. Năm 1805, Gia Long cho phá tòa thành cũ của Thăng
Long, xây dựng thành mới mà dấu vết còn lại tới ngày nay, bao bọc bởi các con
đường Phan Đình Phùng, Hùng Vương, Trần Phú và Phùng Hưng. Năm 1831, trong cuộc
cải cách hành chính của Minh Mạng, toàn quốc được chia thành 29 tỉnh,
Thăng Long thuộc tỉnh Hà Nội.Với hàm nghĩa nằm trong sông (Hán
tự 河內), tỉnh Hà Nội khi đó gồm 4 phủ, 15 huyện, nằm
giữa sông Hồng và Sông Đáy. Tỉnh Hà Nội gồm thành Thăng Long,
phủ Hoài Đức của trấn Sơn Tây, và ba phủ Ứng Hoà, Thường Tín, Lý Nhân của trấn
Sơn Nam. Phủ Hoài Đức gồm 3 huyện: Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Từ Liêm. Phủ Thường
Tín gồm 3 huyện: Thượng Phúc, Thanh Trì, Phú Xuyên. Phủ Ứng Hoà gồm 4 huyện:
Sơn Minh (nay là Ứng Hòa), Hoài An (nay là phía nam Ứng Hòa và một phần Mỹ
Đức), Chương Đức (Nay là Chương Mỹ - Thanh Oai). Phủ Lý Nhân gồm 5 huyện: Nam
Xang (nay là Lý Nhân), Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Bình Lục. Hà Nội có tên
gọi bắt đầu từ đây.
Nền kinh tế Hà Nội nửa đầu thế kỷ 19
cũng khác biệt so với Thăng Long trước đó. Các phường, thôn phía Tây và Nam
chuyên về nông nghiệp, còn phía Đông, những khu dân cư sinh sống
nhờ thương mại, thủ công làm nên bộ mặt của đô thị Hà Nội. Bên
cạnh một số cửa ô được xây dựng lại, Hà Nội thời kỳ này còn xuất hiện
thêm những công trình tín ngưỡng, tôn giáo như đền Ngọc Sơn, chùa Báo
Ân...
2.Buổi đầu chống thực dân Pháp xâm
lược:
Năm 1858, Pháp bắt đầu nổ
súng xâm chiếm Đông Dương. Sau khi chiếm ba tỉnh Đông Nam Kỳ, quân đội
Pháp dưới sự chỉ đạo của Francis Garnier tiến đến Hà Nội đầu tháng 11
năm 1873. Mặc dù triều đình nhà Nguyễn chủ hòa, nhưng dân chúng Hà
Nội vẫn tiếp tục chống lại người Pháp dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri
Phương và Hoàng Diệu. Năm 1884, Tự Đức ký hòa ước công nhận
sự bảo hộ của Pháp trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, Hà Nội cũng bước
vào thời kỳ thuộc địa.
Ngày 19 tháng
7 năm 1888, Tổng thống Pháp Sadi Carnot ký sắc lệnh
thành lập thành phố Hà Nội. Thành phố Hà Nội lúc này có diện tích nhỏ bao gồm 2
huyện Thọ Xương và huyện Vĩnh Thuận thuộc phủ Hoài Đức. Phạm vi thành phố
bó hẹp nằm trong khu vực Phố Huế, Đại Cồ Việt, Khâm Thiên, Giảng Võ, Đường Thụy
Khuê, Hồ Tây đến cầu Long Biên. 3 phủ Hoài Đức, Thường Tín, Ứng Hòa thuộc
về tỉnh Hà Đông. Phủ Lý Nhân tách ra tạo thành tỉnh Hà Nam.
Đến năm 1902, Hà Nội trở thành thủ
đô của toàn Liên bang Đông Dương. Nhờ sự quy hoạch của người Pháp, thành
phố dần có được bộ mặt mới. Lũy thành thời Nguyễn dần bị triệt hạ, đến năm 1897
hầu như bị phá hủy hoàn toàn,[ chỉ còn lại Cột Cờ, Cửa
Bắc với vết đạn năm 1873, Đoan Môn và lan can rồng đá ở trong hoàng thành cũ.
Năm 1901, các công trình phủ Thống sứ, Nhà bưu điện, Kho bạc, Nhà đốc lý, Nhà
hát lớn, Cầu Long Biên, Ga Hà Nội, những quảng trường, bệnh viện... được xây
dựng. Hà Nội cũng có thêm trường đua ngựa, các nhà thờ Cơ Đốc giáo,
trường Đại học Y khoa, Đại học Đông dương, Đại học Mỹ thuật, các trường Cao
đẳng Pháp lý, Nông lâm cùng những nhà máy sản xuất rượu bia, diêm,
hàng dệt, điện, nước... Khi những nhà tư bản người Pháp tới Hà Nội ngày một
nhiều hơn, các rạp chiếu phim, nhà hát, khách sạn... dần xuất hiện, những con
phố cũng thay đổi để phù hợp với tầng lớp dân cư mới. Vào năm 1921, toàn thành
phố có khoảng 4.000 dân châu Âu và 100.000 dân bản địa.
Sự xuất hiện của tầng lớp tư sản
Việt Nam khiến văn hóa Hà Nội cũng thay đổi. Nền văn hóa phương Tây theo chân
người Pháp du nhập vào Việt Nam kéo theo những xáo trộn trong xã hội. Không còn
là một kinh thành thời phong kiến, Hà Nội ít nhiều mang dáng dấp của một đô thị
châu Âu. Thành phố vẫn tiếp tục giữ vai trò trung tâm tri thức, nghệ thuật của
cả quốc gia, nơi tập trung các nhà thơ mới, những nhạc sĩ tân
nhạc cùng những trí thức, học giả nổi tiếng.
VII.Hà Nội từ 1919 đến nay
1.Hà Nội từ 1919 đến hết chiến tranh
Giữa thế kỷ 20, Hà Nội chịu những
biến cố phức tạp của lịch sử. Sự kiện Nhật Bản tấn công Đông
Dương năm 1940 khiến Việt Nam phải nằm dưới sự cai trị của cả đế
quốc Pháp và Nhật. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, tại Hà
Nội, quân đội Nhật đảo chính Pháp. Nhưng chỉ năm tháng sau, quốc gia này phải
đầu hàng quân Đồng Minh, kết thúc cuộc Thế chiến thứ hai. Vào thời điểm
thuận lợi đó, lực lượng Việt Minh tổ chức cuộc Cách mạng tháng
Tám thành công, lật đổ nhà nước Đế quốc Việt Nam, buộc vua Bảo Đại thoái
vị, giành lấy quyền lực ở Việt Nam. Ngày 2 tháng 9 năm
1945, Hồ Chí Minh đọc
tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình, khai sinh nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa với thủ đô Hà Nội. Sau độc lập, thành phố chia
thành các khu phố, đổi tên nhiều vườn hoa, đường phố, như đại lộ (Avenue) Paul
Doumer đổi tên là Nhân quyền, đường (Rue de la) République đổi tên là Dân
Quyền, đại lộ Puginier đổi tên là Dân Chủ Cộng Hòa, đường Ollivier đổi là Hạnh
Phúc, đường Dr Morel đổi là Tự Do,...
Cuối năm 1945, quân đội Pháp quay
lại Đông Dương. Sau những thương lượng không thành, Chiến tranh
Đông Dương bùng nổ vào tháng 12 năm 1946 và thành phố Hà Nội
nằm trong vùng kiểm soát của người Pháp. Năm 1954, chiến thắng
Điện Biên Phủ giúp những người Việt Minh lấy lại miền Bắc Việt
Nam, Hà Nội tiếp tục giữ vị trí thủ đô của Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Vào thời điểm được tiếp quản, thành phố gồm 4 quận nội thành với 34 khu
phố, 37.000 dân và 4 quận ngoại thành với 45 xã, 16.000 dân. Cuối thập niên
1950 và đầu thập niên 1960, Hà Nội nhiều lần thay đổi về hành chính và địa
giới. Năm 1958, bốn quận nội thành bị xóa bỏ và thay bằng 12 khu phố. Năm 1959,
khu vực nội thành được chia lại thành 8 khu phố, Hà Nội cũng có thêm 4 huyện
ngoại thành. Tháng 4 năm 1961, Quốc hội quyết
định mở rộng địa giới Hà Nội, sát nhập thêm một số xã của Hà Đông, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc và Hưng Yên. Toàn
thành phố có diện tích 584 km²,
dân số 91.000 người. Ngày 31 tháng 5 năm 1961, bốn khu phố nội
thành Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Ba Đình, Đống Đa và
4 huyện ngoại thành Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì, Từ Liêm được
thành lập.
Khi cuộc Chiến tranh
Việt Nam leo thang, Hà Nội phải hứng chịu những cuộc tấn công
trực tiếp từ Hoa Kỳ. Riêng trong chiến dịch
Linebacker II năm 1972, trong khoảng 2.200 người dân bị thiệt
mạng ở miền Bắc, số nạn nhân ở Hà Nội được thống kê là 1.318 người. Nhiều cơ
quan, trường học phải sơ tán tới các tỉnh lân cận.
2.Sau chiến tranh
Sau chiến tranh,
Hà Nội tiếp tục giữ vai trò thủ đô của quốc gia Việt Nam thống nhất.
Ngày 21 tháng 12 năm 1978, Quốc hội Việt
Nam phê chuẩn mở rộng địa giới Hà Nội, sáp nhập thêm 5
huyện Ba Vì, Thạch Thất, Phúc Thọ, Đan Phượng, Hoài Đức và thị xã Sơn
Tây của tỉnh Hà Sơn Bình cùng
hai huyện của tỉnh Vĩnh Phú là Mê Linh, Sóc Sơn. Dân số Hà Nội lên
tới con số 2,5 triệu người. Bên cạnh lượng dân cư các tỉnh tới định cư ở thành
phố, trong khoảng thời gian từ 1977 tới 1984, Hà Nội cũng đưa 12.861 hộ, 21.587
nhân khẩu tới Lâm Đồng theo
chính sách xây dựng kinh tế mới Ngày 12 tháng 8 năm 1991, ranh giới Hà Nội lại
được điều chỉnh, chuyển lại 5 huyện và 1 thị xã đã lấy của Hà Sơn Bình năm 1978
cho Hà Tây và
Mê Linh được nhập vào tỉnh Vĩnh Phú. Hà
Nội còn lại 4 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành, với diện tích đất tự nhiên
924 km².
Ngày 28 tháng 10 năm 1995, Chính phủ ra Nghị
định 69/CP thành lập quận Tây Hồ trên
cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 3 phường: Bưởi, Thụy Khuê, Yên
Phụ thuộc quận Ba Đình và
5 xã: Tứ Liên, Nhật Tân, Quảng An, Xuân La, Phú Thượng thuộc huyện Từ Liêm.
Ngày 26 tháng 11 năm 1996, Chính phủ ra Nghị
định 74/CP thành lập quận Thanh Xuân trên cơ sở
toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 5 phường: Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân,
Thượng Đình, Kim Giang, Phương Liệt, 78,1ha diện tích tự nhiên và 20.862 nhân
khẩu của phường Nguyễn Trãi, 98,4ha diện tích tự nhiên và 5.506 nhân khẩu của
phường Khương Thượng thuộc quận Đống Đa,
toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Nhân Chính thuộc huyện Từ Liêm và
xã Khương Đình thuộc huyện Thanh Trì; cũng trong Nghị
định này quyết định thành lập quận Cầu Giấy trên
cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 4 thị trấn: Cầu Giấy, Nghĩa Đô,
Nghĩa Tân, Mai Dịch và 3 xã: Dịch Vọng, Yên Hòa, Trung Hòa thuộc huyện Từ Liêm.[48] Ngày 6 tháng 11 năm 2003, Chính phủ ra Nghị
định 132/2003/NĐ-CP thành lập quận Long Biên trên cơ sở
toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 10 xã: Thượng Thanh, Giang Biên, Ngọc
Thụy, Việt Hưng, Hội Xá, Gia Thụy, Bồ Đề, Long Biên, Thạch Bàn, Cự Khối và 3
thị trấn: Gia Lâm, Đức Giang, Sài Đồng thuộc huyện Gia Lâm, cũng trong Nghị
định này quyết định thành lập quận Hoàng Mai trên
cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 9 xã: Định Công, Đại Kim, Hoàng
Liệt, Thịnh Liệt, Thanh Trì, Vĩnh Tuy, Lĩnh Nam, Trần Phú, Yên Sở và 55ha diện
tích tự nhiên của xã Tứ Hiệp thuộc huyện Thanh Trì, toàn bộ diện
tích tự nhiên và dân số của 5 phường: Mai Động, Tương Mai, Tân Mai, Giáp Bát,
Hoàng Văn Thụ thuộc quận Hai Bà Trưng.
Sau thời kỳ bao
cấp, từ cuối thập niên 1990, sự phát triển
về kinh tế dẫn
đến các khu vực ngoại ô Hà Nội nhanh chóng được đô thị hóa.
Những cao ốc mọc lên ở khu vực nội ô và các trung tâm công nghiệp cũng được xây
dựng ở những huyện ngoại thành. Sự phát triển cũng kéo theo những hệ lụy. Do
không được quy hoạch tốt, giao thông thành phố thường xuyên ùn tắc khi số lượng
xe máy tăng cao. Nhiều khu phố phải chịu tình trạng ngập úng mỗi khi mưa lớn.
Mật độ dân số quá cao khiến những dân cư nội ô phải sống trong tình trạng chật
chội và thiếu tiện nghi. Vào năm 2003, 30% dân số Hà Nội sống dưới mức 3 m² một
người. Mật độ cây xanh của thành phố chỉ khoảng 1–2 m²/người, thuộc hàng rất
thấp so với các thành phố trên thế giới (Stockholm trên 70 m²/người).
VIII.Hà Nội thời kì đổi mới và phát
triển
Song việc tăng dân số quá nhanh cùng
quá trình đô thị hóa thiếu
quy hoạch tốt đã khiến Hà Nội trở nên chật chội, ô nhiễm và giao thông nội
ô thường xuyên ùn tắc. Nhiều di sản kiến trúc đang dần biến
mất, thay vào đó là những ngôi nhà ống nằm lộn xộn trên các con phố. Hà Nội còn
là một thành phố phát triển không đồng đều với giữa các khu vực như giữa các
quận nội thành và huyện ngoại thành, nhiều nơi người dân vẫn chưa có được những
điều kiện sinh hoạt thiết yếu.[51] Ngoài
ra, hiện Hà Nội là một trong những thành phố ô nhiễm nhất khu vực Đông Nam Á,
hàm lượng bụi ở đây cao gấp nhiều lần mức cho phép.
Ngày 29 tháng 5 năm 2008, với gần 93% đại biểu
tán thành, Quốc hội Việt Nam đã thông qua nghị quyết điều chỉnh địa giới hành
chính thủ đô Hà Nội và các tỉnh, có hiệu lực từ 1 tháng 8 cùng năm.
Theo nghị quyết, toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh của
tỉnh Vĩnh Phúc và
4 xã thuộc huyện Lương Sơn,
tỉnh Hòa Bình được
sáp nhập về Hà Nội. Từ diện tích gần 1.000 km² và dân số khoảng 3,4 triệu
người, Hà Nội sau khi mở rộng có diện tích 3.324,92 km² và dân số
6.232.940 người, nằm trong 17 thủ đô lớn
nhất thế giới.[22] Ngày 8 tháng 5 năm 2009, quận Hà Đông được
thành lập từ thành phố Hà Đông trước đây và thành phố Sơn Tây được chuyển
thành thị xã Sơn
Tây. Năm 2010, Hà Nội đã tổ chức thành công Đại lễ 1000
năm Thăng Long - Hà Nội để lại dấu ấn trong lòng người dân và bạn
bè quốc tế. Hoàng thành
Thăng Long, văn bia tại Văn Miếu -
Quốc Tử Giám và Lễ hội Thánh
Gióng đã được UNESCO công nhận là di sản văn
hóa thế giới. Nhiều công trình quan trọng như cầu Vĩnh Tuy, bảo tàng Hà
Nội, công viên Hòa
Bình... đã được khánh thành.
Năm 2010 Hà Nội cũng đạt
được những kết quả khả quan trọng trong phát triển kinh tế. GDP tăng
11%, thu nhập bình quân đầu người xấp xỉ đạt 2.000 Đô la Mỹ.
Tổng thu ngân sách trên địa bàn vượt 100.000 tỷ đồng. Hà Nội đã tổ chức thành
công đại hội Đảng bộ
lần thứ 15 với mục tiêu tới năm 2015 phát triển thành
thành phố công nghiệp theo
hướng hiện đại, trung tâm hành chính chính trị quốc gia, trung tâm lớn về kinh
tế và giao lưu quốc tế, trung tâm văn hóa giáo dục y tế của cả Việt Nam. Thành
phố phấn đấu GDP bình
quân đầu người đạt 4.300 Đô la Mỹ vào năm 2015. Tính tới ngày 30 tháng 10 năm 2010, dân số toàn thành
phố là 6,913 triệu người (tổng kiểm tra hộ khẩu trên địa bàn).[53] Ngày 27 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ra Nghị
quyết 132/NQ-CP chia huyện Từ Liêm thành
2 quận là Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm.
Hà Nội đã được UNESCO trao
danh hiệu "Thành phố vì hòa bình" vào ngày 17 tháng 6 năm 1999. Năm 2000, Chủ tịch
nước Trần Đức
Lương đã tặng thưởng thành phố Hà Nội danh hiệu "Thủ đô
anh hùng" vào ngày 4 tháng 10. Với tuổi đời hơn 1000 năm, Hà Nội chính là
thủ đô lâu đời nhất trong 11 thủ đô của các quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á.
0 comments :
Post a Comment